Nghiên cứu trao đổi

Kỷ niệm 68 năm chiến thắng Điện Biên Phủ (07/5/1954 - 7/5/2022) Tầm vóc chiến thắng Điện Biên Phủ với cách mạng Việt Nam và thế giới

04/05/2022 03:12:19PM
Màu chữ Cỡ chữ

Chiến thắng Điện Biên Phủ đã góp phần làm thay đổi cục diện thế giới. Chỉ riêng trong năm 1960, 17 nước châu Phi đã giành được độc lập và đến năm 1967, Pháp đã buộc phải trao trả độc lập cho tất cả các nước là thuộc địa của Pháp

Từ sau Chiến dịch Biên giới (cuối năm 1950), Quân đội Nhân dân Việt Nam đã chiến thắng trong nhiều chiến dịch, giành và giữ thế chủ động trên chiến trường miền Bắc. Vùng giải phóng mở rộng, chính quyền dân chủ nhân dân được củng cố.

Trong khi đó, quân viễn chinh Pháp càng ngày càng lún sâu vào thế bị động, lúng túng. Để cứu vãn tình thế, tháng 5/1953, với sự thỏa thuận của Mỹ, Chính phủ Pháp cử tướng Henri Navarre, Tổng Tham mưu trưởng lục quân khối Bắc Đại Tây Dương làm Tổng chỉ huy quân viễn chinh Pháp ở Đông Dương. Tháng 7/1953 Navarre vạch ra một kế hoạch quân sự toàn diện, có hệ thống, được Hội đồng Chính phủ và Hội đồng Quốc phòng Pháp thông qua, mưu toan trong vòng 18 tháng sẽ tiêu diệt phần lớn bộ đội chủ lực của ta, kiểm soát lãnh thổ Việt Nam và bình định cả Nam Đông Dương. Kế hoạch mang tên tướng Nava, là nỗ lực cuối cùng của thực dân Pháp và sự can thiệp Mỹ nhằm giành lại thế chủ động có tính quyết định về quân sự trên chiến trường, làm cơ sở cho một giải pháp chính trị có lợi cho chúng.

Về ta, cuối tháng 9/1953, Bộ Chính trị và Chủ tịch Hồ Chí Minh họp, bàn xác định chủ trương tác chiến trong Đông Xuân 1953-1954 là sử dụng một bộ phận chủ lực mở những cuộc tiến công vào những hướng quan trọng về chiến lược mà lực lượng của địch tương đối yếu, nhằm tiêu diệt một bộ phận sinh lực của chúng, đồng thời buộc chúng phải bị động phân tán lực lượng đối phó với ta trên những địa bàn xung yếu mà chúng không thể bỏ. Phương châm chiến lược là tích cực, chủ động, cơ động, linh hoạt.

Ngày 20/11/1953, Pháp mở cuộc hành quân Castor đánh chiếm Điện Biên Phủ, biến nơi đây thành một tập đoàn cứ điểm. Điện Biên Phủ là một thung lũng tương đối rộng ở Tây Bắc Việt Nam. Dài 15 km, rộng 5 km, giữa thung lũng có sông Nậm Rốm chảy qua. Cách Hà Nội 300 km về phía tây, cách Lai Châu 80 km về phía nam. Xung quanh là núi đồi trập trùng bao quanh tứ phía, rừng già rộng khắp.

Điện Biên Phủ tuy là kế hoạch nằm ngoài dự kiến ban đầu của Kế hoạch Nava của Pháp và Mỹ, nhưng các tướng lĩnh Pháp và Mỹ đã liên tiếp cho tăng cường lực lượng, xây dựng Điện Biên Phủ thành một tập đoàn cứ điểm mạnh nhất Đông Dương. Địch đã cho tập trung ở đây 16.200 quân, hầu hết là những đơn vị tinh nhuệ nhất trong quân đội viễn chinh Pháp ở Đông Dương. Cứ điểm Điện Biên Phủ được bố trí thành 3 phân khu với 49 cứ điểm, huy động toàn bộ lính dù và 40% lực lượng cơ động tinh nhuệ nhất của Pháp ở Đông Dương; hai sân bay Mường Thanh và Hồng Cúm với gần 100 lần chiếc lên, xuống mỗi ngày có thể vận chuyển khoảng 200 đến 300 tấn hàng và thả dù từ 100 đến 150 tên địch, đảm bảo nguồn tiếp viện cho quân Pháp trong quá trình tác chiến. Tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ thực sự là “một cứ điểm mạnh nhất từ trước tới nay chưa bao giờ có ở Đông Dương” được mệnh danh là “pháo đài khổng lồ không thể công phá.” Thậm chí cả Pháp và Mỹ đều thách thức quân đội nhân dân Việt Nam tấn công Điện Biên Phủ, để Điện Biên Phủ là "cái bẫy để nghiền nát quân chủ lực Việt Minh". Giới chỉ huy Pháp rất tự tin vào chiến thắng, Bộ trưởng Quốc phòng René Pleven đã báo cáo với Chính phủ Pháp sau chuyến đi thị sát tình hình Đông Dương: "Tôi không tìm được bất cứ ai tỏ ra nghi ngờ về tính vững chắc của tập đoàn cứ điểm. Nhiều người còn mong ước cuộc tiến công của Việt Minh". Chúng cho rằng nếu quân ta mở cuộc tiến công vào Điện Biên Phủ thì là đi vào con đường tự sát, sự thất bại chắc chắn không thể nào tránh khỏi.

Về phía ta, lực lượng vũ trang đã hình thành được các binh chủng, gồm pháo mặt đất, pháo phòng không, công binh, thông tin. So sánh quân số đơn thuần tại chiến trường Điện Biên Phủ thì ta hơn hẳn địch (ta là 40.000 người/địch 16.000 tên). Theo lý thuyết quân sự "Ba tấn một thủ", bên tấn công phải mạnh hơn bên phòng thủ ít nhất là 3 lần cả về quân số lẫn hỏa lực thì mới là cân bằng lực lượng. Về quân số, Quân đội nhân dân Việt Nam chỉ vừa đạt tỉ lệ này, nhưng về hỏa lực và trang bị thì lại kém hơn hẳn so với Pháp. Mặt khác, chúng được bảo vệ trong hệ thống công sự trận địa vững chắc, với nhiều trung tâm đề kháng. Nếu không có phương án tác chiến đúng đắn và cách đánh phù hợp, ta khó có thể thắng địch.

Trước tình hình đó, Bộ Chính trị quyết định mở Chiến dịch Điện Biên Phủ và thông qua phương án tác chiến, thành lập Bộ Chỉ huy chiến dịch, Đảng uỷ mặt trận do Đại tướng Võ Nguyên Giáp làm Tư lệnh kiêm Bí thư Đảng uỷ chiến dịch, hạ quyết tâm phải đánh thắng trận này. Khắc phục mọi khó khăn, nhất là công tác hậu cần, cả nước đã tập trung sức mạnh cho mặt trận ĐBP với khẩu hiệu “Tất cả cho tiền tuyến, tất cả để chiến thắng”. Các đơn vị bộ đội chủ lực nhanh chóng tập kết, ngàv đêm bạt rừng, xẻ núi mở đường, kéo pháo, xây dựng trận địa, sẵn sàng tiến công địch. Có 261.451 dân công, thanh niên xung phong bất chấp bom đạn, hướng về Điện Biên bảo đảm hậu cần phục vụ chiến dịch. Phương châm "đánh nhanh, giải quyết nhanh" của Bí thư Đảng ủy - Chỉ huy trưởng Mặt trận Võ Nguyên Giáp thay bằng phương châm "đánh chắc, tiến chắc" đã được Bác Hồ và Bộ Chính trị nhất trí lựa chọn.

Trận quyết chiến lược Điện Biên Phủ đã diễn ra 3 đợt. Đợt 1 từ ngày 13/3 đến 17/3/1954, đợt 2 từ ngày 30/3 đến ngày 30/4/1954, đợt 3 từ ngày 01/5 đến ngày 07/5/1954. Sau 55 ngày đêm chiến đấu dũng cảm, mưu trí, sáng tạo quân và dân ta đã đập tan toàn bộ tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ, tiêu diệt và bắt sống 16.200 tên, bắn rơi 62 máy bay, thu 64 ô tô và toàn bộ vũ khí, đạn dược, quân trang quân dụng của địch. Chiến thắng oanh liệt Điện Biên Phủ được hội tụ bởi nhiều nguyên nhân:

Đảng ta, đứng đầu là Hồ Chủ tịch đã đề ra đường lối kháng chiến, đường lối quân sự độc lập, đúng đắn, sáng tạo. Ngay từ ngày đầu chống thực dân Pháp xâm lược, Đảng ta đã lãnh đạo nhân dân thực hiện cuộc kháng chiến toàn dân, toàn diện, dựa vào sức mình là chính; xây dựng lực lượng vũ trang nhân dân gồm 3 thứ quân (bộ đội chủ lực, bộ đội địa phương, dân quân du kích) làm nòng cốt cho toàn dân đánh giặc, kết hợp chặt chẽ chiến tranh du kích với chiến tranh chính quy; tiến công quân sự, địch vận và nổi dậy của quần chúng; đấu tranh quân sự với đấu tranh chính trị, kinh tế, văn hoá, ngoại giao.

Tinh thần phục vụ tiền tuyến của nhân dân. Đáp ứng lời kêu gọi của Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh, ra sức thực hiện khẩu hiệu “tất cả cho mặt trận, tất cả để chiến thắng”, đại tướng Võ Nguyên Giáp viết “chưa bao giờ người dân Việt Nam đi ra mặt trận nhiều như vậy... Từ đồng bằng đến rừng núi, trên các con đường lớn và đường con, trên các dòng sông,các ngọn suối, đâu đâu cũng rôn rịp hẳn lên, cả một hậu phương đang tuôn người, tuôn của ra mặt trận...”

Quân đội ta trưởng thành vượt bậc về tư tưởng chính trị, lực lượng, tổ chức chỉ huy, trình độ tác chiến, trang thiết bị quân sự và bảo đảm hậu cần cho chiến dịch quân sự quy mô lớn chưa từng có. Chấp hành nghiêm mệnh lệnh chiến trường vượt qua mọi khó khăn, thử thách, mưu trí, sáng tạo, dũng cảm hy sinh lập nhiều chiến công trên khắp chiến trường Đông Dương, hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ ở chiến trường Điện Biên Phủ.

Tóm lại, trên phạm vi thế giới, lần đầu tiên trong lịch sử nhân loại một đất nước vốn là thuộc địa nửa phong kiến, đất không rộng, người không đông, kinh tế còn lạc hậu, vũ khí kém cỏi đã đánh thắng quân đội xâm lược của một cường quốc phương Tây có tiềm lực kinh tế và quân sự lớn, trang bị vũ khí hiện đại. Việt Nam trở thành nước đi tiên phong trong phong trào giải phóng dân tộc, đấu tranh đánh đổ chủ nghĩa thực dân. Chiến thắng Điện Biên Phủ đã góp phần làm thay đổi cục diện thế giới. Chỉ riêng trong năm 1960, 17 nước châu Phi đã giành được độc lập và đến năm 1967, Pháp đã buộc phải trao trả độc lập cho tất cả các nước là thuộc địa của Pháp.

Tất cả những người yêu chuộng chính nghĩa trên toàn thế giới đều vô cùng phấn khởi về thắng lợi vĩ đại trong cuộc đấu tranh giành tự do, độc lập dân tộc của nhân dân Việt Nam. Giải phóng ĐBP làm cho bọn đế quốc Pháp, Mỹ mất đi cứ điểm cuối cùng ở khu Tây Bắc Việt Nam, tức là những âm mưu biến khu vực này thành bàn đạp để xâm chiếm nước Việt Nam của Kế hoạch Nava hoàn toàn thất bại.

Về phía Pháp, đây là một thất bại lớn nhất trong lịch sử chiến tranh xâm lược thuộc địa của thực dân Pháp. Thất bại ở Điện Biên Phủlà hệ quả tất yếu của những toan tính chiến lược sai lầm, mà trên hết, Pháp đã không thấy hết sức mạnh của một dân tộc đã kiên quyết đứng lên cầm súng chiến đấu bảo vệ độc lập, tự do của Tổ quốc; không đánh giá đúng sức mạnh của cuộc chiến tranh nhân dân Việt Nam dưới sự lãnh đạo của một đảng tiên phong và lãnh tụ thiên tài Hồ Chí Minh. Tướng De Castries, sau khi thất bại trở về Pháp, đã trả lời trước Ủy ban Điều tra của Bộ Quốc phòng Pháp rằng: “Người ta có thể đánh bại một quân đội, chứ không thể đánh bại được một dân tộc”.

Đại tá không quân Pháp Giuyn Roa, từng là cựu binh của trận Điện Biên Phủ, trong cuốn sách sau này của ông có tiêu đề “Trận Điện Biên Phủ dưới con mắt người Pháp”, đã thừa nhận: “Không phải viện trợ bên ngoài đã đánh bại tướng Nava mà chính là những chiếc xe đạp Pơ-giô thồ 200-300kg hàng và đẩy bằng sức người. Cái đã đánh bại tướng Nava không phải là phương tiện, mà là sự thông minh và ý chí của đối phương”.

Sau thất bại ở Việt Nam, đế quốc Pháp đã phải đương đầu với sự vùng dậy không gì cản nổi của nhân dân các nước thuộc địa Châu Phi. Chỉ trong 8 năm (1954-1962) Pháp phải trao trả độc lập cho nhiều nước thuộc địa ở châu Phi.

Chiến thắng Điện Biên Phủ là chiến thắng vĩ đại nhất, giáng đòn quyết định tạo bước ngoặt lịch sử làm thay đổi hẳn cục diện chiến tranh giữa ta và địch, trực tiếp đưa đến việc ký kết Hiệp định Giơnevơ về chấm dứt chiến tranh, lập lại hòa bình ở Đông Dương. Chiến thắng Điện Biên Phủ đã chứng minh một chân lý của thời đại: các dân tộc bị áp bức, bị xâm lược nếu có ý chí kiên cường và đường lối đúng đắn, sáng tạo, biết đoàn kết đấu tranh vì độc lập tự do thì dân tộc đó nhất định thắng lợi.

Ngô Thành Trung

Nguồn: Trang thông tin điện tử Ban Tuyên giáo Tỉnh ủy Long An

Các tin khác

  • Chủ tịch Hồ Chí Minh - tấm gương soi sáng con đường cách mạng Việt Nam (25/05/2022)
  • Sức sống trường tồn của chủ nghĩa Mác – Lênin (25/05/2022)
  • Tác phẩm “Đường Cách mệnh” với vấn đề giải quyết mối quan hệ dân tộc – giai cấp của cách mạng Việt Nam (28/04/2022)
  • Vận dụng tư tưởng “dĩ bất biến ứng vạn biến” của Hồ Chí Minh trong xây dựng và bảo vệ Tổ quốc (26/04/2022)
  • Ứng xử văn hóa trong môi trường mạng xã hội (26/04/2022)
  • Kỷ niệm 152 năm Ngày sinh V.I.Lênin (22/4/1870 - 22/4/2022) (18/04/2022)
  • Kỷ niệm 47 năm ngày giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước (30/4/1975 - 30/4/2022) Long An trong ngày 30 tháng 4 (18/04/2022)
  • Kỷ niệm 115 năm ngày sinh Tổng Bí thư Lê Duẩn (07/4/1907 - 07/4/2022) (08/04/2022)
  • Kỷ niệm 75 năm Ngày Bác Hồ trở lại Tuyên Quang lãnh đạo toàn quốc kháng chiến (2/4/1947-2/4/2022) (07/04/2022)
  • Toàn văn Bài phát biểu của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng tại Hội nghị Văn hóa toàn quốc (24/01/2022)
  • Trang đầu 12345 Trang cuối